Trong những tháng đầu năm nay, lực lượng quản lý thị trường đã kiểm tra và phát hiện nhiều đại lý, cây xăng tư nhân treo biển hết xăng hoặc đóng cửa với lý do chưa hợp lý cũng bởi thu không đủ bù chi, một doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu giấu tên cho biết. Vì vậy, để đảm bảo nguồn cung xăng dầu trong nước không bị gián đoạn, giải pháp quan trọng nhất là cơ quan quản lý Nhà nước cần thay đổi cách thức tính giá bám sát diễn biễn thị trường. Bên cạnh đó, việc tính toán để bù phụ phí nhập khẩu xăng dầu cũng phải tính toán để giảm thiệt hại phần nào cho các doanh nghiệp, đại diện doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu được giao nhiệm vụ tăng sản lượng đề xuất. Doanh nghiệp này cũng cho biết, hiện chỉ có 10 trong số 35 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu phải có nhiệm vụ thực hiện sản lượng giao thêm, số doanh nghiệp còn lại không bị ràng buộc bởi quy định này. Thêm vào đó, chỉ tiêu sản lượng tăng thêm được Bộ Công Thương tính toán trên giả định Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn không hoạt động trong quý 2/2022. Tuy nhiên, theo thông tin từ Bộ Công Thương, từ giữa tháng 3 đến cuối tháng 5/2022, Nhà máy sẽ sản xuất 100% công suất cho dù thời điểm này vẫn chưa có kế hoạch giao hàng cho các thương nhân đầu mối, đặc biệt trong tháng 5 chưa rõ về khả năng duy trì sản xuất. Từ thực tế này, nguy cơ thua lỗ với 10 doanh nghiệp đầu mối phải nhập khẩu thêm xăng dầu là hiện hữu khi giá xăng dầu thế giới tăng "nóng" như hiện nay, nhất là khi Nhà máy Nghi Sơn trở lại hoạt động bình thường, doanh nghiệp giấu tên này chỉ rõ. Hiện nay, giá xăng dầu trong nước vẫn thấp hơn giá xăng dầu thế giới và các nước trong khu vực trước bối cảnh giá xăng dầu thế giới tăng cao. Trong khi đó, cơ chế điều hành giá xăng dầu theo điều 27, Nghị định 95/2021/NĐ-CP quy định thời gian điều chỉnh giá xăng dầu là ngày mùng 1, ngày 11 và ngày 21 hằng tháng. Vì vậy, tại cuộc họp ngày 9/2 mới đây, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho rằng cần có sự linh hoạt hơn trong điều hành giá xăng dầu như không nhất thiết phải chờ đúng 10 ngày như quy định mà có thể 3 hoặc 5 ngày điều chỉnh. Bộ Công Thương sẽ báo cáo Chính phủ đề nghị cho phép Liên Bộ Công Thương-Tài chính linh hoạt hơn trong điều hành để giá mặt hàng này tiệm cận thế giới.
Sân bay quốc tế Nội Bài (HAN) là sân bay lớn và quan trọng nhất khu vực miền Bắc Việt Nam. Sân bay nằm tại huyện Sóc Sơn, cách trung tâm Hà Nội khoảng 35km. Cảng hàng không Nội Bài gồm có 2 nhà ga nội địa (T1) và quốc tế (T2). Nhà ga nội địa chuyên phục vụ các chuyến bay trong nước, còn nhà ga quốc tế dành riêng cho hành khách bay các chuyến quốc tế đi và đến. Sân bay này sở hữu 2 đường băng cất, hạ cánh, cơ sở vật chất hiện đại. Phải kể đến đó là hệ thống dẫn đường tiêu chuẩn CAT II, sân đỗ rộng, đủ khả năng chứa nhiều loại máy bay lớn. Để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của hành khách, sân bay được đầu tư cơ sở vật chất hiện đại gồm cây nước miễn phí, quầy hàng miễn thuế, khu vực sạc điện thoại, hộp ngủ,…
Khởi công vào năm 1930 và chuyến bay đầu vào năm 1933 từ Paris đến Sài Gòn. Hiện tại là cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất phục vụ 3 hãng hàng không nội địa cùng hơn 45 hãng hàng không quốc tế. Hàng năm, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất phục vụ khoảng hàng triệu lượt khách trong nước và quốc tế. Sân bay Tân Sơn Nhất được đầu tư đầy đủ hệ thống trang thiết bị an ninh, thiết bị dẫn đường an toàn, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Tại đây, bạn có thể sử dụng hầu hết các dịch vụ tiện ích cần thiết. Ví dụ như dịch vụ ngân hàng, y tế, vui chơi giải trí, đóng gói hành lý, phòng khách thương gia,...
Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng là sân bay quốc tế lớn nhất miền Trung – Tây Nguyên, một trong 3 sân bay lớn nhất Việt Nam, thuộc địa phận quận Hải Châu, có diện tích 842 ha và cách 3 km từ trung tâm thành phố. Dưới sự quản lý của Tổng công ty cảng hàng không Việt Nam (Bộ Giao Thông Vận Tải). Mỗi ngày, sân bay quốc tế này tiếp đón hơn 15.000 lượt khác nội địa và quốc tế, hơn 150 chuyến bay trong và ngoài nước được thực hiện. Về cơ sở vật chất, cảng hàng không quốc tế này sở hữu 2 đường băng cất hạ cánh. Ngoài ra, có thể kể đến nhiều hệ thống dẫn đường chính xác, an toàn như ILS, NDB,... Bên cạnh đó còn có hệ thống radar thứ cấp hiện đại, khả năng dự báo thời tiết và khí tượng tiên tiến bậc nhất Đông nam Á. Sân bay rộng, đủ chỗ để tiếp nhiều loại máy bay cỡ lỡn như Boeing, Airbus.
Cảng hàng không quốc tế Phú Bài – Huế cách trung tâm thành phố Huế 15km về phía nam thành phố. Gồm 1 đường băng 2700m được trang bị hệ thống đèn công suất lớn phục vụ việc cất, hạ cánh ban đêm. Về cơ sở vật chất, sân bay đã được đầu tư mạnh tay, hệ thống đèn tín hiệu tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống dẫn đường hiện đại ILS, hệ thống dự báo khí tượng tiên tiến, chính xác. Sân đỗ tàu bay rộng, đạt cấp sân bay 4C. Năng lực phục vụ hằng năm tối đa là 1,5 triệu lượt khách.
Cảng hàng không Quốc Tế Cam Ranh là một trong những sân bay mang tính chiến lược trong việc phát triển kinh tế, thúc đẩy du lịch của tỉnh Khánh Hòa nói riêng và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ nói chung. Đây là sân bay đạt cấp 4D theo tiêu chuẩn ICAO, đủ năng lực để phục vụ nhiều loại máy bay cỡ lớn trên thế giới. Tính đến năm 2012, cảng hàng không Cam Ranh đã đạt được khả năng tiếp đón, vận chuyển hơn 1 triệu lượt khách mỗi năm. Tính đến năm 2020 hiện nay, con số này đã được gia tăng hàng chục lần.
Cảng hàng không Quốc tế Cát Bi nằm cách trung tâm thành phố Hải Phòng 8km theo hướng Đông Nam. Trước đây, Cát Bi được sử dụng cho mục đích quân sự, do người Pháp xây dựng và chính thức khai thác các chuyến bay thương mại từ năm 1985. Chiều dài đường băng cất hạ cánh là 3.050 mét, phục vụ cả ngày lẫn đêm. Sân đậu tàu bay rộng, có sẵn 10 vị trí đỗ cho dòng tàu bay cỡ lớn Airbus. Sân bay Cát Bi ngoài phục vụ các chuyến bay nội địa thì một số hãng hàng không quốc tế cũng khai thác thêm nhiều chuyến bay từ Hải Phòng tới Bangkok (Thái Lan), Incheon (Hàn Quốc), Trung Quốc...
Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ là tên gọi chính thức của sân bay Trà Nóc, nằm trên đường Lê Hồng Phong, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ và cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 8km. Trước kia, sân bay Cần Thơ phục vụ chủ yếu các chuyến bay nội địa đến nhiều tình thành trong cả nước. Vào tháng 1/2020, sân bay đã chính thức có 2 đường bay quốc tế tới Seoul (Hàn Quốc) và Đài Bắc (Đài Loan) và hứa hẹn sẽ mở rộng thêm trong tương lai.
Riêng tháng 4.2022, tổng khối lượng qua cảng biển ước khảng 59 triệu tấn, tăng 3%. Mặt hàng container ước khoảng 2 triệu TEUs, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2020. Trước đó, thống kê của Cục Hàng hải cho thấy, một số khu vực cảng biển có khối lượng hàng hóa thông qua tăng như khu vực Quảng Ninh tăng 11%, khu vực Quảng Nam tăng 19%, khu vực Đồng Nai tăng 8%, khu vực Thanh Hóa tăng 6% (từ 9,5 triệu tấn lên 10,1 triệu tấn). Tuy nhiên, bên cạnh đó một số khu vực cảng biển có lượng hàng giảm mạnh như khu vực Bình Thuận giảm 13%, khu vực Cần Thơ giảm 12%, khu vực Nghệ An giảm 7%, khu vực Hà Tĩnh giảm 4%, khu vực cảng biển lớn Vũng Tàu giảm nhẹ 3%.
Theo ông Trương Tấn Lộc - Giám đốc Marketing - Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, để triển khai nhóm các giải pháp về phát triển hạ tầng logistics, cần tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện qui hoạch tổng thể hệ thống cảng cạn, ICD Việt Nam thời kỳ 2021–2030; rà soát, bổ sung, hoàn thiện qui hoạch tổng thể và chi tiết hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước. Trong đó, cần nhanh chóng triển khai các dự án giao thông đường bộ, cụ thể đường vành đai 3, vành đai 4, đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu, nâng cấp đường cao tốc TPHCM – Long Thành. Đặc biệt, Chính phủ cần xây dựng cơ chế phát triển logistics xanh theo định hướng cắt giảm tỉ trọng sử dụng nhiên liệu hóa thạch trên 1km vận tải; có cơ chế ưu đãi cho các doanh nghiệp về việc giảm các loại thuế…
Lượng hàng hóa qua cảng biển vẫn tiếp tục giảm, trong đó hàng nhập khẩu giảm mạnh Một số khu vực cảng biển có sự tăng trưởng hàng hóa thông qua như khu vực Quảng Ninh tăng 42,4%, An Giang tăng 218%, Quảng Trị tăng 20% và Đồng Nai tăng 32%... Ngược lại, nhiều khu vực cảng biển lớn như Vũng Tàu, TP.HCM đều ghi nhận khối lượng hàng hóa thông qua giảm nhẹ từ 3%-8%. Trong đó, TP.HCM đạt 67,2 triệu tấn, giảm 8% và Vũng Tàu đạt 46,9 triệu tấn, giảm 3%. Khối lượng hàng hóa container thông qua cảng biển trong 5 tháng đầu năm 2022 đạt 10,5 triệu TEUs, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, hàng xuất khẩu đạt 3,477 triệu TEUs, tăng 5% và hàng nhập khẩu đạt 3,63 triệu TEUs, tăng 5%. Lượng container thông qua cảng biển TP HCM cũng giảm 3,4%, Đà Nẵng giảm 18,1%. Thậm chí, các cảng biển của Thanh Hóa, Nghệ An còn có mức giảm 22% đến 99% so với cùng kỳ năm 2021. Phó Cục trưởng Cục Hàng hải VN Hoàng Hồng Giang đánh giá, mức tăng 1% của khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển là mức tăng trưởng thấp nhất so với vài năm gần đây, dù Việt Nam đã bước sang tình hình mới sau dịch Covid-19. Trước đó, trong 4 tháng đầu năm, mức tăng trưởng là 2% so với cùng kỳ đã là mức tăng rất thấp trong nhiều năm. Đáng chú ý, hàng hóa nhập khẩu qua cảng biển tiếp tục giảm mạnh. Lượng hàng nhập khẩu chỉ đạt 87,1 triệu tấn, giảm 8% so với cùng kỳ năm 2021. Theo ước tính của Cục Hàng hải VN, lượng hàng nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm tiếp tục giảm 8%. Theo Tổng Cục thống kê, kinh tế - xã hội trong 6 tháng đầu năm của nước ta diễn ra trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thế giới được dự báo giảm sau 2 năm bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, tác động từ cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine, cũng như sự gián đoạn chuỗi cung ứng do tình trạng phong tỏa để kiểm soát dịch Covid-19 tại Trung Quốc. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 6/2022 ước đạt 32,37 tỷ USD, giảm 0,8% so với tháng trước. Đối với thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2022, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 55,9 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 61,3 tỷ USD.
Nông dân Gia Lai thu hoạch cà phê Không riêng Phúc Sinh, lãnh đạo một doanh nghiệp xuất khẩu trái cây, rau củ sang Nga khác kể cũng đang phải dừng các đơn hàng do khó vận chuyển hàng. Chứng từ xuất khẩu sang Nga cũng bị ngân hàng từ chối do thanh toán giữa doanh nghiệp Việt và đối tác lâu nay vẫn thực hiện qua mạng lưới SWIFT. "Các hãng vận chuyển quốc tế đều không nhận hàng, các chuyến bay sang thị trường này cũng hạn chế. Hàng vì thế bị ngưng, còn thanh toán thì không được", vị này chia sẻ. Nga là thị trường tiềm năng của Việt Nam, xét cả khía cạnh nhập khẩu và xuất khẩu. Số liệu của hải quan cho thấy, năm 2021, Việt Nam xuất sang Nga 3,2 tỷ USD; nhập khẩu từ nước này 2,3 tỷ USD, tăng 15%. Các mặt hàng xuất khẩu chính sang Nga, gồm điện thoại và linh kiện (chiếm 33% kim ngạch của Việt Nam sang Nga); máy vi tính và sản phẩm điện tử (13%), dệt may (10,5%), cà phê (5,4%), thủy sản (5,1%). Còn với Ukraine, kim ngạch xuất khẩu không lớn, dưới một tỷ USD, nhưng nước này lại là đối tác thương mại truyền thống, quan trọng của Việt Nam tại khu vực Á - Âu. Năm 2021, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 720,5 triệu USD, tăng gần 51% so với cùng kỳ 2020. Thuỷ sản, giày dép, máy tính điện tử... là những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang quốc gia này. Theo lãnh đạo Vụ thị trường châu Âu, châu Mỹ (Bộ Công Thương), Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng không nhỏ, trực tiếp và tiêu cực tới sản xuất, xuất nhập khẩu, lạm phát, cung cầu; vận chuyển, lưu thông hàng hoá, thanh toán hợp đồng thương mại... Các doanh nghiệp có dự án hợp tác với Nga, Ukraine, Belarus và các nước liên quan trong cuộc khủng hoảng cũng sẽ chịu tác động. "Cuộc khủng hoảng này gây ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện và tiêu cực, trước mắt và lâu dài tới kinh tế, thương mại, tài chính, tới chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu của thế giới cũng như Việt Nam", Vụ thị trường châu Á, châu Âu nhận xét. Trước tiên là nguồn cung các nguyên, nhiên liệu khi cuộc xung đột này đang là một trong những nguyên nhân chính làm tăng giá khí đốt - dầu mỏ, lúa mì, nhôm, nickel, ngô... do thị phần sản xuất và xuất khẩu Nga, Ukraine với các mặt hàng này lớn. Việc thanh toán các hợp đồng thương mại với Nga cũng sẽ gặp khó, sau khi Mỹ và các nước phương Tây đưa ra hàng loạt lệnh trừng phạt nhắm vào hệ thống ngân hàng của Nga, đóng băng tài sản Ngân hàng Trung ương Nga... Những bước trừng phạt này trước mắt sẽ ảnh hưởng đến việc thanh toán nhiều hợp đồng sử dụng thanh toán bằng USD. Ruble mất giá rất mạnh khiến một số nhà nhập khẩu của Nga đề nghị dừng thanh toán trong 2-3 tuần để chờ tình hình ổn định. Hiện một số hãng tàu đã từ chối nhận đơn vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam đi Nga. Giá cước vận tải sẽ tiếp tục tăng cao cùng với sự chậm trễ trong vận chuyển sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến thương mại hàng hóa. Ngoài ra, việc cấm vận hàng không cũng khiến các hãng phải chọn đường bay dài hơn, chi phí tăng, áp lực gia tăng lên hệ thống vận chuyển logistics toàn cầu và giá cả hàng hóa. Theo các doanh nghiệp, chi phí vận chuyển hàng hóa xuất khẩu vừa qua đã quá cao, giá cước vận tải tăng tiếp khiến chi phí bị đội lên rất mạnh và họ có thể "không còn đồng lời nào". Chưa kể, việc đồng ruble mất giá sẽ làm giảm khả năng nhập khẩu của Nga. Doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này sẽ phải tính lại bài toán chi phí, thị trường. Theo Vụ thị trường châu Âu, châu Mỹ, thương mại song phương Việt - Nga sẽ không tránh khỏi các tác động tiêu cực nếu Mỹ và phương Tây tiếp tục tăng các biện pháp trừng phạt mạnh và toàn diện về tài chính lên Nga. Cơ quan này khuyến cáo doanh nghiệp đang xuất khẩu sang 2 nước trên cần chủ động làm việc với các đối tác nhập khẩu về thanh toán, tiến độ giao hàng... Từ kinh nghiệm xuất khẩu nhiều năm, ông Phan Minh Thông, Tổng giám đốc Tập đoàn Phúc Sinh cũng cho rằng, lúc này tốt nhất các doanh nghiệp đang có hàng sang Nga nên đưa về và tìm cách bán sang thị trường khác để tránh rủi ro. Ở khía cạnh này, Vụ thị trường châu Á, châu Âu lưu ý, các doanh nghiệp cũng cần tận dụng tối đa ưu đãi trong các Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước để đa dạng hoá thị trường. Trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn khi xuất hàng sang Nga và Ukraine, có thể liên hệ thương vụ Việt Nam tại hai quốc gia này để được hỗ trợ, tìm phương thức tháo gỡ. Tại phiên họp Chính phủ tháng 2, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo lập Tổ công tác đặc biệt nhằm giải quyết và ứng phó kịp thời trước tác động của xung đột Nga - Ukraine tới Việt Nam.
Trong khuôn khổ dự án này, Cục Xúc tiến thương mại là cơ quan đầu mối được giao nhiệm vụ trực tiếp triển khai các hoạt động thuộc hợp phần 3. Mục tiêu tập trung xây dựng và triển khai Chương trình Hỗ trợ đổi mới và cạnh tranh (chương trình ICG) với mục đích tăng cường năng lực dịch vụ xuất khẩu, xây dựng Hệ sinh thái xúc tiến xuất khẩu thông qua tài trợ cho các tiểu dự án của Tổ chức hỗ trợ thương mại (BSO) ở cả khu vực công và tư để triển khai sáng kiến hỗ trợ doanh nghiệp và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Từ năm 2022-2024, Chương trình ICG dự kiến sẽ tài trợ từ 10-15 tiểu dự án được lựa chọn thông qua một quy trình cạnh tranh và triển khai qua ba đợt mời nộp đề xuất dự án. Quy mô tài trợ tối đa là 150.000 USD/tiểu dự án trong thời gian từ 12 - 24 tháng. Đây là dự án quan trọng đối với Chính phủ Việt Nam nói chung và Bộ Công thương nói riêng, góp phần hỗ trợ nâng cao thành tích xuất khẩu và năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam một cách bền vững và toàn diện thông qua cải thiện các điều kiện khung thuận lợi cho phát triển xuất - nhập khẩu, tăng cường cơ chế đối thoại công - tư và phát triển hệ sinh thái năng động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu. Việc triển khai Chương trình ICG sẽ góp phần nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu cho các tổ chức hỗ trợ kinh doanh năng động để hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu và tham gia một cách hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bà Nguyễn Thuý Hiền, Giám đốc Ban Quản lý dự án cho biết, quy mô xuất khẩu của Việt Nam đạt gần 340 tỷ USD vào cuối năm ngoái và tiếp tục có tăng trưởng dương trong nửa đầu năm 2022, đạt 186 tỷ USD, đã và đang là động lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm, trong đó khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Theo đó, Chương trình sẽ tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát triển xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thông qua việc kêu gọi các BSO đề xuất sáng kiến về đổi mới sáng tạo trong việc cung cấp dịch vụ xúc tiến thương mại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu cho các doanh nghiệp và hỗ trợ nâng cao năng lực cho các BSO. Đại diện cho đơn vị tài trợ, ông Werner Gruber, Trưởng Cơ quan Hợp tác Phát triển Thụy Sỹ tại Việt Nam kỳ vọng, chương trình ICG của dự án SwissTrade sẽ tạo một động lực mới, quan trọng nhắm tới thúc đẩy xúc tiến xuất khẩu, tạo đà tăng trưởng và phát triển cho các doanh nghiệp tại địa phương, đồng thời góp phần tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và một khu vực tư nhân năng động. Dự án SwissTrade có 3 hợp phần chính. Hợp phần 1, hỗ trợ Bộ Công thương xây dựng Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2021-2030 và kế hoạch hành động kèm lộ trình thực hiện; tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm chính sách thương mại về phân tích và xây dựng chính sách, các công cụ quản lý, theo dõi và giám sát thực thi chính sách thương mại... Hợp phần 2, hỗ trợ Bộ Công thương đánh giá hiện trạng, triển khai các diễn đàn đối thoại công- tư trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách nói chung, chính sách thương mại và xúc tiến xuất khẩu nói riêng; thiết kế và tổ chức triển khai thí điểm các mô hình về diễn đàn đối thoại công- tư trong lĩnh vực thương mại theo các vấn đề ưu tiên; tổ chức tập huấn, đào tạo nâng cao năng lực cho các bên tham gia về các diễn đàn đối thoại công- tư. Hợp phần 3, hỗ trợ Bộ Công thương xây dựng và triển khai chương trình ICG để tài trợ kinh phí thực hiện hỗ trợ nâng cao năng lực và triển khai các sáng kiến về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Hàng hóa được vận chuyển đường biển đôi khi vẫn gặp rủi ro không lường trước.